Năm 2023, thị trường lao động Việt Nam ba quý đầu năm gặp khá nhiều khó khăn, đặc biệt là tình trạng mất việc, giảm việc làm xảy ra ở một số nhóm, ngành hàng như: dệt may, da giầy, chế biến đồ gỗ… Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, giữa năm 2023, số lao động bị mất việc, giãn việc, thiếu việc làm do cắt giảm đơn hàng lên tới hơn 500.000 người, trong đó khoảng 270.000 người mất việc làm. Tính đến hết quý 3/2023, cả nước còn 118.400 lao động mất việc, số lao động nghỉ giãn việc cũng giảm 187.000 người. Những con số đó cho thấy vẫn còn những áp lực lớn đối với việc phát triển thị trường lao động trong năm 2024.
NĂM 2023: THỊ TRƯỜNG DẦN ỔN ĐỊNH VÀ HỒI PHỤC
Ngay từ đầu năm 2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế. Chính phủ xác định thị trường lao động Việt Nam đóng vai trò trọng yếu của nền kinh tế như các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản… Việc thực hiện Nghị quyết này có tính chiến lược dài hạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đòi hỏi các bộ, ngành phải chủ động phối hợp thực hiện từ sớm.
Ngay sau khi Nghị quyết ra đời, ngành Lao động đã chỉ đạo các Trung tâm dịch vụ việc làm trên cả nước tập trung kết nối cung - cầu lao động, kết nối thông tin lao động - việc làm giữa các tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào với các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đầu tư hệ thống thông tin thị trường lao động, nhất là việc ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ thông tin trong kết nối cung - cầu lao động. Tăng cường tổ chức các phiên giao dịch việc làm để nhanh chóng kết nối việc làm cho người lao động; đẩy mạnh giải ngân vốn cho vay giải quyết việc làm…
Cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 6/1/2023 của Chính phủ nhằm phục hồi kinh tế đã mang lại những kết quả tích cực giúp thị trường lao động năm 2023 từng bước ổn định và hồi phục dần vào cuối năm 2023.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2023 đạt 52,4 triệu người, cao hơn 666,5 triệu người so với năm trước. Trong đó, lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người, chiếm 37,3%, khu vực nông thôn là 32,9 triệu người, chiếm 62,7%; lực lượng lao động nữ đạt 24,5 triệu người, chiếm 46,7%; lực lượng lao động nam đạt 27,9 triệu người, chiếm 53,3%.
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2023 là 68,9%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với năm 2022. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới là 75,2%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong khi đó con số này của nữ giới là 62,9%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Đặc biệt, số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm năm 2023 đạt 51,3 triệu người, tăng 683,0 nghìn người (tương ứng tăng 1,35%) so với năm 2022.
Theo khu vực kinh tế, lao động có việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 13,8 triệu người, giảm 118,9 nghìn người, tương ứng giảm 0,9% so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng là 17,2 triệu người, tăng 248,2 nghìn người, tương ứng tăng 1,5%; khu vực dịch vụ với 20,3 triệu người, tăng 553,6 nghìn người, tương ứng tăng 2,8% và duy trì mức tăng cao nhất so với hai khu vực còn lại.
Về lao động qua đào tạo: tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 là 27,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm trước. Đáng chú ý, tỷ lệ này ở quý 4/2023 là 27,6%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Về thất nghiệp: Năm 2023, cả nước có gần 1,07 triệu người thất nghiệp trong độ tuổi lao động, giảm 14,6 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2023 là 2,28%, giảm 0,06 điểm phần trăm so với năm trước. Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 918,5 nghìn người, giảm 79,8 nghìn người so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động năm 2023 là 2,01%, giảm 0,2 điểm phần trăm so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn (tương ứng là 1,61% và 2,26%).
So sánh tỷ lệ thiếu việc làm trên với các năm 2021, 2022 có thể thấy thị trường lao động bị xáo trộn mạnh ở năm 2021 do đại dịch Covid-19, năm 2022 do kiểm soát được đại dịch nên tình hình thiếu việc làm của người lao động tiếp tục xu hướng được cải thiện từ năm 2022 cho đến cuối năm 2023.
Về tiền lương, tiền công: thu nhập bình quân tháng của người lao động là 7,1 triệu đồng, tăng 6,9%, tương ứng tăng 459 nghìn đồng so với năm 2022. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam là 8,1 triệu đồng, gấp 1,36 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ (6,0 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị gấp 1,4 lần khu vực nông thôn (8,7 triệu đồng so với 6,2 triệu đồng).
NĂM ÁP LỰC LÊN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG NĂM 2024
Các số liệu thống kê về thị trường lao động năm 2023 nêu trên và so sánh với số liệu các năm trước đều cho thấy lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có xu hướng tăng hàng năm. Theo số liệu năm 2010, khi dân số khoảng 87,5 triệu dân thì lực lượng lao động trong độ tuổi từ 15 trở lên khoảng hơn 50,5 triệu người; còn năm 2023 dân số khoảng 100 triệu dân thì lực lượng lao động này là 52,4 triệu người. Như vậy, Việt Nam vẫn đang ở thời kỳ cơ cấu dân số vàng, nghĩa là dân số có khả năng lao động (độ tuổi từ 15 đến 64) chiếm tỷ lệ cao. Theo nhận định của các chuyên gia dân số, thời kỳ cơ cấu này có thể kéo dài đến năm 2037. Điều đó cho thấy Việt Nam đang có một nguồn cung lao động trẻ khá dồi dào cho thị trường lao động.
Mặc dù thị trường lao động năm 2023 đang phục hồi và hướng ổn định, nhưng xem xét các chỉ số khác vẫn còn đó những áp lực có thể làm cho thị trường lao động xáo trộn, bất ổn trong năm 2024.
Thứ nhất, số lao động có việc làm phi chính thức bao gồm cả những lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản đang rất lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số lao động phi chính thức tính chung cho cả năm 2023 là 33,3 triệu người. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,9%, giảm 0,9 điểm phần trăm, giảm thấp hơn 1,8 điểm phần trăm so với năm 2022. Số lao động phi chính thức tăng được lý giải là do sự sụt giảm đơn hàng diễn ra từ năm 2022 đến hết năm 2023 làm ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế, tác động đến thị trường lao động, từ đó làm giảm hiệu quả của các chính sách thúc đẩy chính thức hóa lao động phi chính thức.
Thứ hai, chất lượng lao động cung cho thị trường còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng cho cầu của một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Áp lực này thể hiện qua chỉ số lực lượng lao động đã qua đào tạo. Năm 2023, ước tính khoảng 14,1 triệu người đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ, chiếm 27%. Nếu vậy cả nước vẫn còn trên 38 triệu lao động chưa qua đào tạo. Cũng cần nói thêm rằng, với thời kỳ cơ cấu dân số vàng, lao động trẻ rất cần được đào tạo bởi lục lượng này sẽ dễ dàng tiếp thu khoa học, kỹ thuật và linh hoạt hơn trong chuyển đổi nghề…
Ngoài ra, việc thiếu hụt trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch... là những thách thức không nhỏ đặt ra cho thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập. Điều này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động trong năm 2024 và những năm tiếp theo.
Thứ ba, sự chuyển dịch cơ cấu ngành giữa khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, khu vực công nghiệp và xây dựng, khu vực dịch vụ có dấu hiệu chậm lại trong năm 2023 khi so sánh với các năm 2020, 2022 (năm 2021 không tính đến vì ảnh hưởng rõ của đại dịch Covid-19). Thí dụ, tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp năm 2020, 2022 giảm lần lượt 1 và 1,6 điểm phần trăm thì tăng tương ứng ở khu vực công nghiệp, xây dựng là 0,5 và 0,3 điểm phần trăm, khu vực dịch vụ 0,5 và 1,2 điểm phần trăm. Năm 2023 tỷ trọng này giảm chậm ở cả ba khu vực trên theo thứ tự tương ứng 0,6, 0,1 và 0,6 điểm phần trăm.
Thứ tư, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên năm 2023 là 7,63%, tỷ lệ này hơi cao. Đáng chú ý, tỷ lệ này ở khu vực thành thị cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn; trong khi đó, tỷ lệ thanh niên nông thôn không tham gia học tập, đào tạo ở khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị.
Thứ năm, số lao động không sử dụng hết tiềm năng trong năm 2023 là khoảng 2,3 triệu người, chiếm tỷ lệ 4,3%. Áp lực này cho thấy mức độ “lệch pha” giữa cung và cầu lao động trên thị trường lao động, có thể phản ánh tình trạng dư cung về lao động cũng như vấn đề kết nối cung- cầu lao động trên thị trường. Tất nhiên, số lao động không sử dụng hết tiềm năng luôn tồn tại trong thị trường và thường tăng cao khi thị trường chịu các cú sốc về kinh tế – xã hội...
Nội dung bài viết được đăng tải trên ẩn phẩm đặc biệt Kinh tế 2023-2024: Việt Nam & Thế giới phát hành ngày 06/03/2024. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
https://postenp.phaha.vn/chi-tiet-toa-soan/tap-chi-kinh-te-viet-nam
Chính phủ xác định thị trường lao động đóng vai trò trọng yếu của nền kinh tế cùng các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản. Vì vậy, thị trường này cần được đổi mới, phát triển phù hợp với các nguyên tắc của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt, cần chú trọng và tập trung khắc phục các hạn chế như: chưa giải phóng được mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển; việc làm còn thiếu bền vững và chưa kết nối cung - cầu lao động giữa các vùng, khu vực, ngành nghề.
Sau đại dịch Covid-19, năm 2023, thị trường lao động trong 3 quý đầu năm gặp khá nhiều khó khăn do nhu cầu của thế giới giảm, đặc biệt với một số nhóm ngành hàng như: dệt may, da giầy, chế biến đồ gỗ… Tuy nhiên, sang quý IV đã có dấu hiệu phục hồi và đến cuối năm 2023, số người có việc làm và thu nhập đều tăng so với năm 2022. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy: số lượng lao động có việc làm quý IV/2023 đạt 51,5 triệu người, tăng 130,4 nghìn người so với quý trước và tăng 414,6 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; tính chung cả năm 2023 ước đạt 51,3 triệu người, tăng 683 nghìn người so với năm 2022. Thu nhập bình quân của lao động quý IV/2023 ước đạt 7,3 triệu đồng/tháng, tăng 180 nghìn đồng/tháng so với quý trước và tăng 444 nghìn đồng/tháng so với cùng kỳ năm trước; tính chung cả năm 2023 đạt 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 459 nghìn đồng/tháng so với năm 2022.
Năm 2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 27-27,5%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 2,76%, đạt mục tiêu Nghị quyết Quốc hội đề ra.
Tuy nhiên, hiện cả nước vẫn còn khoảng 38 triệu lao động qua đào tạo, nhưng chưa có chứng chỉ bằng cấp. Đây là một thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ năng của người lao động, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Từ thực trạng của thị trường lao động Việt Nam, đặc biệt sau đại dịch Covid-19, năm 2023 với tinh thần “Nhìn xa - Chủ động sớm - Hành động mau lẹ - Ứng xử kịp thời”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 06/NQ-CP ngày 10/1/2023 về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập quốc tế. Nội dung các chủ trương của Đảng, Nhà nước ban hành đều mang tầm nhìn xa, có tính chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đòi hỏi các bộ, ngành phải chủ động phối hợp thực hiện.
Đối với thị trường việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã chỉ đạo Trung tâm Dịch vụ việc làm các tỉnh, thành phố tập trung kết nối cung - cầu lao động, kết nối thông tin lao động - việc làm giữa các tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào với các tỉnh, thành phố vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đầu tư hệ thống thông tin thị trường lao động, nhất là việc ứng dụng chuyển đổi số và công nghệ thông tin trong kết nối cung - cầu lao động. Tăng cường tổ chức các phiên giao dịch việc làm để nhanh chóng kết nối việc làm cho người lao động; đẩy mạnh giải ngân vốn cho vay giải quyết việc làm.
Năm 2023, Bộ tập trung, định hướng, đào tạo và bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực theo nhu cầu thị trường. Đây là vấn đề cấp bách liên quan đến công tác dự báo cung - cầu lao động. Cùng với đó là tiến hành quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, sáp nhập các trường trung cấp, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, một trường cao đẳng ở một địa phương có thể dạy nhiều hệ khác nhau, nhiều chương trình khác nhau theo tinh thần Nghị quyết 19 của Trung ương.
Hệ thống trường nghề các bộ, ngành, đoàn thể đang được sắp xếp lại theo tinh thần quy về một đầu mối, theo đúng Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045; đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực theo hướng đổi mới sáng tạo; sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập trực thuộc theo hướng tinh gọn, hiệu quả; hình thành cơ sở giáo dục nghề nghiệp có tính chất hạt nhân, dẫn dắt, lan tỏa và thống nhất đầu mối quản lý một số trường chất lượng cao, trường thực hiện chức năng trung tâm vùng, trung tâm quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao. Nhìn chung quy mô đào tạo, chất lượng đào tạo đã được nâng lên góp phần vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Từ năm 2024, chúng tôi phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong một số ngành nghề mà thế giới đang có nhu cầu như: nhân lực công nghệ chip bán dẫn, hydrogen, đào tạo chứng chỉ, tín chỉ carbon, phục vụ chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn...
Đúng vậy, việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là một trong những giải pháp để góp phần đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo thu nhập và giải quyết việc làm cho thị trường lao động, giúp hàng vạn lao động nhiều vùng quê của Việt Nam phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Năm 2023, Bộ đã đưa 155.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 129% kế hoạch năm, tăng 8,55% so với năm 2022, mức cao nhất từ trước đến nay.
Nhiều năm nay, Nhật Bản luôn là thị trường tiếp nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn nhất. Vừa qua, trong chuyến công tác cùng Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sang Nhật Bản, chúng tôi đã bàn bạc và thống nhất với Nhật Bản một số vấn đề liên quan đến ba lĩnh vực: lao động; giáo dục nghề nghiệp và phát triển hệ thống an sinh xã hội, trong đó có việc phối hợp tổ chức thi kỹ năng đặc định tại Việt Nam trong năm 2024.
Đây là một vấn đề khá trăn trở đối với tôi, vì chúng ta hiện có 350.000 lao động người Việt đang làm việc tại Nhật Bản, đứng đầu trong 15 quốc gia có lao động làm việc tại đây, nhưng khi tham gia thi đánh giá kỹ năng đặc định, người lao động của Việt Nam phải tốn kém thêm kinh phí, thời gian để sang nước khác thi. Việc thi này rất quan trọng đối với người lao động Việt Nam vì xác định tư cách lưu trú dành cho mình khi đảm nhiệm công việc đòi hỏi kiến thức hoặc kinh nghiệm ở mức độ nhất định trong lĩnh vực ngành nghề đặc định tại Nhật Bản.
Tất nhiên, để đạt được tư cách lưu trú “kỹ năng đặc định” này, người lao động Việt Nam phải hoàn thành chương trình đào tạo kỹ thuật hoặc vượt qua kỳ thi đánh giá kỹ năng đặc định do Chính phủ Nhật Bản tổ chức. Đây cũng là cách chúng ta phải tự nâng cao chất lượng, kỹ năng cho người lao động Việt Nam thực hiện mục tiêu “đi làm thuê, về làm chủ”.
Hội nghị “Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập” được tổ chức là khẳng định của Chính phủ về tuyên bố ổn định và phát triển các loại thị trường – một trong "4 ổn định" trong trọng tâm, chỉ đạo điều hành của Chính phủ hiện nay.
Hội nghị cũng là dịp để các bộ, ngành, các chuyên gia báo cáo, phân tích tình hình thị trường lao động thời gian qua; nhận diện những thuận lợi, cơ hội, khó khăn, thách thức hiện nay để đề xuất các giải pháp hỗ trợ phát triển thị trường lao động nhanh, hiệu quả để làm cơ sở phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) Việt Nam, qua đó kiến nghị những giải pháp để phát triển thị trường lao động, phát triển KT-XH.
Sau khi nghe đại diện các bộ, ngành, các chuyên gia trong nước và quốc tế hiến kế phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, bền vững và hội nhập, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh về 9 giải pháp phát triển thị trường lao động thời gian tới. Cụ thể:
Một là, nâng cao nhận thức về thị trường lao động, tuân thủ quy luật các quy luật của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi lao động là hàng hóa đặc biệt để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hiệu quả, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao.
Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn. Thúc đẩy hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết thị trường lao động trong và ngoài nước. Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm, hệ thống giáo dục nghề nghiệp và lưới an sinh xã hội...
Hai là, nắm bắt nhu cầu, phát triển thị trường lao động đúng hướng, tập trung vào các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm đang là ưu tiên hiện nay như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu… Tập trung xây dựng hệ thống quản trị thị trường lao động hiện đại, minh bạch để mỗi người lao động từ khi tham gia đến khi rời thị trường lao động được quản trị minh bạch, thống nhất, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động giao dịch việc làm, tiếp cận thông tin về thị trường lao động việc làm; để doanh nghiệp dễ tiếp cận cung lao động, nâng cao chất lượng lao động, cơ sở đào tạo có chiến lược, kế hoạch đào tạo, cung ứng kịp thời, sát với nhu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nối với số hóa quản lý dân cư.
Ba là, chú trọng đầu tư cả về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa lĩnh vực theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Hệ thống thông tin và dự báo hướng tới đối tượng người sử dụng là các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, doanh nghiệp và nhất là người lao động và người sử dụng lao động. Chính sách phải dựa trên cơ sở dữ liệu hiện tại và dự báo tương lai.
Nhiều chỉ số của thị trường lao động như tỉ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm, số việc làm được tạo ra… là những chỉ số kinh tế vĩ mô rất quan trọng trong việc chỉ đạo, điều hành KTXH.
Bốn là, đẩy mạnh xây dựng chính sách việc làm trên nguyên tắc có tính dự báo, tầm nhìn chiến lược, chủ động, phù hợp với cơ chế thị trường, xây dựng nhiêm vụ phù hợp, khả thi, hiệu quả cả ngắn hạn và dài hạn, đa dạng hoá các nguồn tín dụng để thúc đẩy việc tạo việc làm mới, việc làm sáng tạo, chất lượng cao, việc làm bền vững, việc làm xanh, phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, ứng phó biến đổi khí hậu, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa.
Năm là, cần quan tâm tới việc dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có cơ cấu phân bổ lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc; có cơ chế khuyến khích hỗ trợ dịch chuyển lao động, hỗ trợ các địa bàn còn yếu kém; đẩy mạnh liên kết thị trường việc làm giữa các vùng trong nước, hình thành cơ chế kết nối cung cầu tự động giữa thị trường trong và ngoài nước. Tạo việc làm ở khu vực nông thôn, miền núi để người dân có thể làm việc tại quê hương với mức thu nhập ổn định, để người lao động hạn chế phải xa quê hương. Triển khai chính sách hỗ trợ nhà ở cho công nhân, người lao động ở khu công nghiệp và các thành phố lớn. Về việc này, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị về nhà ở xã hội với mục tiêu xây dựng ít nhất 01 triệu căn nhà ở xã hội cho công nhân, người thu nhập thấp đến năm 2030.
Sáu là, đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng thời cơ dân số vàng, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo những kỹ năng ngoại ngữ, tính kỷ luật, kỷ cương… để hội nhập với thị trường lao động thế giới.
Bảy là, thực hiện các văn bản, quy định liên quan tới thị trường lao động, Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông để đẩy mạnh phân luồng và bảo đảm quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đối với con em công nhân lao động, chú trọng đào tạo cả kỹ năng nghề và kỹ năng sống. Trong nhiệm kỳ này, đang dành khoảng 2.000 tỷ đồng cho việc đào tạo, dạy nghề và dự kiến sẽ bố trí thêm. Chủ trương của chúng ta là không tiếc kinh phí cho việc này, nhưng sử dụng trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả.
Tám là, rà soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, đề xuất mô hình liên kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế trọng điểm.
Thị trường lao động phải phục vụ đắc lực, hiệu quả việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất, sâu rộng, hiệu quả. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng căn dặn: "Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình".
Chín là, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; xây dựng chính sách ưu đãi cho học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đánh giá công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao động phục vụ phục hồi nhanh, phát triển bền vững KT - XH.
Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành, với các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức tiếp thu đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị; nghiên cứu, tham mưu, sớm trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản chỉ đạo về tập trung nguồn lực phát triển thị trường lao động đúng hướng, linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững, hội nhập.