Đại Học Văn Hóa Trung Quốc

Đại Học Văn Hóa Trung Quốc

Trường đại học Văn hóa Trung Quốc là một trường đại học tư thục ở quận Sĩ Lâm, Đài Bắc, Đài Loan.

Giới thiệu chung Đại học Văn hóa Trung Quốc

Đại học Văn hóa Trung Quốc được thành lập bởi Giáo sư Chang Chi-Yun vào năm 1962 với tên gọi “Đại học Viễn Đông”, và sau đó được gọi là “Trường Đại học Văn hóa Trung Quốc” bởi cố Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch.

Đại học Văn hóa Trung Quốc có năm cơ sở với tổng diện tích 115 ha. Trụ sở chính của trường đặt tại Hoa Cương, Dương Minh Sơn, liền kề với vườn quốc gia. Các tòa nhà trong khuôn viên trường đều được trình bày theo kiểu cung điện của Trung Quốc, với dáng vẻ trang nhã, uy nghiêm. Ngoài việc tiếp giáp với Công viên Quốc gia Dương Minh Sơn, Đại học Văn hóa Trung Quốc còn nổi bật với phong cách kiến trúc mái ngói truyền thống cổ kính.

Kí túc xá được chia theo các khu nhà riêng biệt dành cho sinh viên nam, sinh viên nữ, kí túc xá dành cho giáo viên.

Top 20 trường đại học xuất sắc nhất Đài Loan (EduRank).

Top 6% các trường đại học tốt nhất thế giới (EduRank).

Ngày nay CCU đào tạo 12 chuyên ngành với 61 khoa, 43 chương trình Thạc sĩ và 12 chương trình Tiến sĩ được giảng dạy bởi gần 1.600 giảng viên, giáo viên cho hơn 25.000 sinh viên mỗi năm.

=> Thông tin thêm về thầy Quốc Tư và QTEDU:

QTEDU chúc bạn học tiếng Trung vui vẻ và đạt hiệu quả cao!

Đại Học Văn Hóa Trung Quốc (CHINESE CULTURE UNIVERSITY): Tổng Quan Chương Trình Học Và Học Bổng

Đại học Văn hóa Trung Quốc (Chinese Culture University) được thành lập bởi Giáo sư Chang Chi-Yun vào năm 1962 với tên gọi “Đại học Viễn Đông”, và sau đó được gọi là “Trường Đại học Văn hóa Trung Quốc” bởi cố Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch.

Tại Đại học Văn hóa Trung Quốc, các lý tưởng của Trung Quốc và phương Tây về giá trị truyền thống và những đổi mới hiện đại được kết hợp thành các đề tài nghiên cứu hàng đầu, làm cầu nối giữa trải nghiệm văn hóa và đáp ứng nhu cầu của thế giới toàn cầu hóa.

Trường đại học đánh giá cao sự trao đổi quốc tế. Năm 2014. Bằng tiến sĩ danh dự đã được trao cho hơn 300 học giả, chính khách, giáo sĩ, nghệ sĩ, doanh nhân và nhà báo từ 30 quốc gia.

Nghệ thuật Tự do bao gồm ba khoa: Triết học, Văn học Trung Quốc (chia thành Phần Cổ điển và Hiện đại) và Lịch sử. Mỗi khoa đều có các chương trình sau đại học dẫn đến bằng Thạc sĩ hoặc Tiến sĩ. Mục tiêu giáo dục của trường là nuôi dưỡng cho sinh viên một tinh thần nhân văn và kiến ​​thức

2. Nghiên cứu quốc tê và Ngoại ngữ

Nghiên cứu Quốc tế và Ngoại ngữ bao gồm một trung tâm ngôn ngữ và sáu khoa ngôn ngữ và văn học riêng biệt bằng tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức.

Khoa Khoa học bao gồm các Khoa Toán Ứng dụng, Vật lý, Hóa học, Địa lý, Khoa học Khí quyển, Địa chất và Sinh học, cũng như các Trường Cao học Địa lý và Hóa học Ứng dụng.

Khoa Luật bao gồm chương trfinh đào tạoLuật và chương trình sau đại học về Luật.

Khoa học xã hội bao gồm các Khoa Khoa học Chính trị, Kinh tế, Lao động và Nguồn nhân lực, Phúc lợi Xã hội, Quản lý và Hành chính Công, với các chương trình sau đại học về Khoa học Chính trị, Kinh tế, Trường Tôn Trung Sơn về Nghiên cứu Liên ngành, Nghiên cứu Hoa Kỳ, Khoa học Lao động, và Nghiên cứu Trung Quốc đại lục. Trong những năm gần đây, Trường đã chú trọng hơn đến việc trao đổi học thuật và hợp tác giữa Trung Quốc Đại lục và Đài Loan qua eo biển Đài Loan.

Nông nghiệp bao gồm các Khoa Trồng trọt, Khoa học Động vật, Lâm nghiệp và Bảo tồn Thiên nhiên, Tài nguyên Thiên nhiên, Khoa học Ứng dụng về Đời sống, Thực phẩm và Dinh dưỡng, và Trường Sau đại học Khoa học Ứng dụng về Đời sống và Công nghệ Sinh học.

Kỹ thuật bao gồm các Khoa Kỹ thuật Hóa học, Kỹ thuật Điện, Kỹ thuật Cơ khí, Kỹ thuật Dệt may và Khoa học Máy tính, cũng như Khoa Khoa học Vật liệu và Công nghệ Nano sau đại học.

Kinh doanh bao gồm các Khoa Thương mại Quốc tế, Quản lý Kinh doanh, Kế toán, Du lịch, Quản lý Thông tin, Tài chính và Ngân hàng, và các Trường Cao học về Quản trị Kinh doanh Quốc tế, Du lịch, Kế toán và Quản lý Thông tin.

9. Báo chí và Truyền thông đại chúng

Báo chí và Truyền thông đại chúng bao gồm các Khoa Báo chí, Quảng cáo, Truyền thông Đồ họa, Truyền thông Đại chúng, Khoa Báo chí Sau đại học và Khoa Truyền thông Thông tin. Các chương trình giảng dạy của nó được thiết kế để kết hợp nghiên cứu lý thuyết với ứng dụng thực tế. Hợp tác với các phương tiện thông tin đại chúng địa phương được duy trì để tạo cơ hội thực hành cho sinh viên.

Nghệ thuật bao gồm các Khoa Mỹ thuật, Âm nhạc Trung Quốc, Âm nhạc phương Tây, Kịch nghệ Trung Quốc, Nghệ thuật Sân khấu và Múa, và các Trường Cao học về Múa và Mỹ thuật. Trường nhằm mục đích cung cấp một nền tảng vững chắc trong các trường khác nhau tập trung vào nghệ thuật bằng cách nâng cao các tiêu chuẩn trong hoạt động nghệ thuật và biểu diễn nghệ thuật quốc tế. Trong những năm qua, Trường đã đào tạo nhiều nghệ sĩ và nghệ sĩ biểu diễn chuyên nghiệp trong các lĩnh vực tương ứng của họ đã đạt được nhiều giải thưởng trong và ngoài nước.

Thiết kế Môi trường bao gồm các Sở Đô thị và Quy hoạch Môi trường, Kiến trúc và Thiết kế Đô thị, Kiến trúc Cảnh quan, và Trường Cao học Kiến trúc và Quy hoạch Đô thị. Giáo trình cơ bản của Trường rất chú trọng đến việc áp dụng các nguyên tắc sinh thái trong thiết kế.

Giáo dục bao gồm Giáo dục, Giáo dục Thể chất, Võ thuật, Tâm lý Tư vấn và Trung tâm Chương trình Giáo dục, và các Trường Sau đại học về Khoa học Huấn luyện Thể thao, Phúc lợi Trẻ em và Tư vấn Tâm lý. Trường được thành lập như một phương tiện để tích hợp và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực giáo dục, hướng dẫn và nghiên cứu.

Kinesiology và Sức khỏe bao gồm các Khoa Giáo dục Thể chất (chương trình cấp bằng tú tài, chương trình cấp bằng thạc sĩ và tiến sĩ về Khoa học Huấn luyện Thể thao), Thể thao đối kháng và Võ thuật (chương trình cấp bằng tú tài) và Thể dục và Nâng cao sức khỏe (chương trình cấp bằng tú tài). Trường đào tạo nguồn nhân lực tổng hợp và đổi mới cần thiết cho thế hệ mới của xã hội nhằm thực hiện các trách nhiệm và chức năng của giáo dục đại học dựa trên bản chất khoa học, tổ chức, kỹ thuật, thông tin và bồi thường của lĩnh vực động học và sức khỏe.

CHƯƠNG TRÌNH DẠY BẰNG TIẾNG ANH CHO SINH VIÊN QUỐC TẾ

Tại CCU, sinh viên có thể lựa chọn từ rất nhiều khoa sáng tạo về học tập và nghiên cứu tiên tiến cung cấp một loạt các ngành học. Với nhiều sự lựa chọn như vậy, CCU là một trong những cơ sở giáo dục đại học tiên tiến của Đài Loan. Các khóa học hiện được giảng dạy bằng tiếng Anh bao gồm:

Chương trình Cử nhân Kinh doanh Toàn cầu

Chương trình Thạc sĩ Khoa học Trái đất

Chương trình Thạc sĩ Trung Quốc đại lục

Chương trình Thạc sĩ Công nghệ Sinh học

Chương trình Thạc sĩ Kinh doanh Toàn cầu

Chương trình Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh Quốc tế

Chương trình Tiến sĩ Cao học Khoa học Trái đất

Để giảm bớt gánh nặng tài chính của sinh viên, CCU cung cấp các khoản khấu trừ học phí, trợ cấp vừa học vừa làm và các khoản vay học phí cho sinh viên có thu nhập thấp và khó khăn về tài chính. Nhiều khoa cũng cấp học bổng riêng để khuyến khích những sinh viên xuất sắc.

Học bổng & Hỗ trợ dành cho Sinh viên Quốc tế Học trong Chương trình Dạy Tiếng Anh

Học bổng chỉ dành cho một năm. Sinh viên có thể nộp đơn vào năm tiếp theo.

Ngoài ra sinh viên theo học tiếng Hoa tại CCU cũng có cơ hội nhận được học bổng tiền mặt 20,000NTD khi nhập học.

Nếu quan tâm các khóa học tiếng Trung tại Taiwan Diary: Bạn có thể tham khảo tại đây.

Để đăng ký khóa học hoặc giải đáp thắc mắc, tư vấn chọn lớp hãy đăng ký theo lớp sau:

Xem ngay Chi phí dịch vụ hồ sơ du học Đài Loan giá cực tốt tại Taiwan Diary:

Tham gia nhóm Luyện thi TOCFL – Học Tiếng Trung Phồn Thể để xem nhiều bài viết chia sẻ kiến thức tiếng Trung và thông tin du học Đài Loan nha !

Ngày đăng: 08/09/2024 - Cập nhật: 18/09/2024

Trường đại học văn hóa Trung Hoa là trường đại học tư nhân tọa lạc tại quận Sĩ Lâm, trung tâm thành phố Đài Loan, nơi có chợ đêm Sĩ Lâm nổi tiếng khắp thế giới.

Hiện nay, trường đại học văn hóa Trung Hoa là đang dẫn đầu về quy mô tại Đài Loan với số lượng sinh viên khổng lồ: khoảng 32.000 sinh viên, là trường đại học lớn nhất Đài Loan.

Trường Đại Học Văn Hóa Trung Hoa giúp bạn du học Đài Loan vừa học vừa làm thuận lợi. Đơn vị này có kinh nghiệm đào tạo lâu năm với nhiều thành tựu như:

– Thành lập năm 1962, ban đầu trường có tên là Viễn Đông (Far East), về sau được đổi tên thành Cao đẳng Văn hóa Trung Hoa.

– Năm 1980 được nâng cấp thành Đại học như ngày nay.

– Đây là trường đại học lớn nhất Đài Loan, với khoảng 32.000 sinh viên đang theo học, trong đó có khoảng 700 sinh viên nước ngoài.

– Top 20 trường đại học xuất sắc nhất Đài Loan (EduRank).

– Top 6% các trường đại học tốt nhất thế giới (EduRank).

– Những lý tưởng của văn hóa Trung Hoa và văn hóa Tây Phương, bao gồm cả hiện đại lẫn truyền thống được kết hợp thành những tinh hoa hàng đầu.

Được thành lập vào năm 1971, là một bảo tàng đại học, là bảo tàng đại học toàn diện đầu ở Đài Loan.

Bộ sưu tập vĩnh viễn của bảo tàng Hwa Kang bao gồm gốm sứ Trung Hoa từ nhiều thế kỷ, các tác phẩm hội họa và thư pháp, nghệ thuật dân gian và tranh khắc gỗ.

– Cựu sinh viên nổi bật tại CCU:

Hsu Tain-tsair, thị trưởng thành phố Đài Nam.

Lin Yu-chang, thị trưởng thành phố Cơ Long.

Pan Shih-wei, bộ trưởng Bộ Lao Động.

Iwan Nawi, Bộ trưởng Bộ văn hóa và dân tộc thiểu số.

– Âm nhạc truyền thống Trung Hoa.

– Thiết kế và quy hoạch đô thị.

Săn học bổng du học Châu Á không khó với United Ocean Education. Bạn có thể tham khảo thông tin sau của Trường Đại Học Văn Hóa Trung Hoa.

Oversea Chinese Students Scholarships

– Trị giá học bổng: 10.000 NTD/người (chỉ tiêu: chỉ 40 suất/học kỳ)

– Hệ đào tạo: Cử nhân và Thạc sĩ

– Hệ tuyển sinh: Đại học và Sau Đại học

Sau đại học: 2 năm (2 học kỳ/năm)

– Tốt nghiệp ĐH cùng nhóm ngành

– ĐTB trên 2.0 (thang điểm 4.0)

– Riêng MBA cần có kinh nghiệm làm việc tối thiểu 1 năm

Cử nhân: 35.000 NTD – 45.000 NTD/học kỳ

Thạc sĩ: 45.000 NTD – 50.000 NTD/học kỳ

Vì sao nên chọn UOE để du học Đài Loan

– Du học UOE là đơn vị duy nhất có đại diện tại Đài Loan, sẵn sàng giúp đỡ du học sinh từ khi tư vấn đến khi kết thúc khóa học, hỗ trợ giới thiệu việc làm sau khi tốt nghiệp và tìm chỗ ở.

– Đội ngũ giám đốc, tư vấn viên đều là những người có nhiều kinh nghiệm  trong lĩnh vực du học, giáo dục, đã từng sinh sống và học tập tại Đài Loan.

Công Ty Liên hiệp Giáo Dục Đại Dương tự hào giúp bạn có hướng đi hay khi du học Đài. Hãy kết nối với chúng tôi để có thêm các thông tin hay về Trường Đại Học Văn Hóa Trung Hoa bạn nhé!

Văn hóa Trung Quốc (chữ Hán giản thể: 中华文化; chữ Hán phồn thể: 中華文化; Hán-Việt:Trung Hoa văn hoá;pinyin: Zhōnghuá wénhuà) là một trong những nền văn hóa lâu đời và phong phú nhất trên thế giới.[1][2] Các vùng mà văn hóa Trung Quốc thống trị trải dài trên một khu vực địa lý rộng lớn ở miền Đông châu Á với các phong tục và truyền thống rất nhiều điểm khác nhau giữa các thị trấn, thành phố và tỉnh. Văn hóa Trung Quốc đã lan truyền và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các dân tộc, quốc gia lân cận như Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản.

Lãnh thổ Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn nhiều lần hiện nay. Địa hình Trung Quốc rất đa dạng và phong phú, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.

Trung Quốc có hàng ngàn con sông lớn nhỏ, nhưng có hai con sông quan trọng nhất là sông Hoàng Hà và sông Trường Giang (hay sông Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.

Trung Quốc có nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gốc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tây và sông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay. (Dân núi Hoa sông Hạ).

Trung Quốc ngày nay có 56 dân tộc, và 5 dân tộc có dân số đông nhất là Hán (~1,2 tỉ), Choang (16,1 triệu), Mãn (10,6 triệu), Hồi (9,8 triệu), H'Mông (8,9 triệu).

Con người đã sinh sống ở đất Trung Quốc cách đây hàng triệu năm. Dấu tích người vượn ở hang Hoa Hạ - Bình Nhưỡng (gần Bắc Kinh) có niên đại cách đây hơn 500.000 năm. Cách ngày nay khoảng hơn 5000 năm, xã hội nguyên thủy ở Trung Quốc bước vào giai đoạn tan rã, xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời.

Giai đoạn đầu, lịch sử Trung Quốc chưa được ghi chép chính xác mà chỉ được chuyển tải bằng truyền thuyết. Theo truyền thuyết, các vua đầu tiên của Trung Quốc là ở thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế (Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông và Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu đế, Thuấn đế). Theo các nhà nghiên cứu, thực ra đây là giai đoạn cuối cùng của thời kỳ công xã nguyên thủy.

Nền văn minh Trung Hoa cổ gắn liền với vùng lục địa Đông Á rộng lớn. Cách đây khoảng 50 vạn năm, ở vùng Chu Khẩu Điếm (về phía Tây Nam thành phố Bắc Kinh ngày nay) đã có con người sinh sống, được gọi là người vượn Bắc Kinh (Peking Man). Đó chính là những bầy đoàn người nguyên thủy dùng cành cây gậy gộc và các công cụ đá thô sơ để săn bắt, hái lượm và tự vệ. Người vượn Bắc Kinh đã biết dùng lửa.

Trải qua hàng chục vạn năm, những cư dân nguyên thủy vùng này đã phát triển và ngày một đông đúc. Họ đã hình thành các bộ lạc lớn và bành trướng lãnh thổ, biết chăn nuôi và trồng trọt và cư trú trên một vùng rộng lớn của lục địa châu Á. Trên vùng đồng bằng rộng lớn Hoa Bắc, tổ tiên xưa của người Trung Hoa sống thành những làng xóm ven sông, trong những túp lều tường đất, mái tranh. Tôn giáo-nghệ thuật cũng bắt đầu hình thành từ những cụm cư dân này. Các nhà khảo cổ học khám phá và xác định hai nền văn hóa là Ngưỡng Thiều thuộc Hà Nam và Long Sơn thuộc Sơn Đông Trung Quốc cách ngày nay vào khoảng từ 5.000-7.000 năm. Những di vật tìm thấy ở hai nền văn hóa này, bên cạnh các dụng cụ sản xuất, sinh hoạt còn có các sản phẩm gốm được làm từ một loại đất mà đồ gốm có màu đen và có các hoa văn hình học, hình động thực vật... được tạo dáng thanh thoát và có độ bền chắc.

Theo truyền thuyết, vào khoảng từ 4.500 đến 5.000 năm trước đây, vùng phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc, dọc theo thượng nguồn của con sông Hoàng Hà có một quần thể dân cư sinh sống và đã đạt được một trình độ văn hóa khá cao, Văn minh sông Hoàng Hà hay văn minh Hoa Hạ. Những cư dân này sống định cư dưới chân núi Hoa nên tiếng Trung Quốc gọi là Hoa Hạ (người sống ở núi Hoa sông Hạ). Cũng theo truyền thuyết, người Hoa Hạ đã có nhiều thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa và xã hội.

Văn minh Hoàng Hà theo các nhà sử học và khảo cổ học, được xem là bắt đầu từ khoảng 2.500 TCN đến 1.066 TCN, và được chia thành các giai đoạn sau:

Thời kỳ này bắt đầu bởi sự sụp đổ của nhà Thương và bắt đầu kỷ nguyên của nhà Chu (1.066 TCN – 221 TCN) bao gồm nhà Tây Chu (1.066 TCN – 771 TCN) và nhà Đông Chu hay còn được gọi là thời Xuân Thu và Chiến Quốc và kết thúc chiến tranh giữa các tiểu vương quốc bằng sự bắt đầu triều đại nhà Tần thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN. Sau đó, nhà Hán thống nhất Trung Quốc thành lập vương triều Hán tồn tại gần 400 năm.

Đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.

Kinh Thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu, được Khổng Tử sưu tập và chỉnh lý. Kinh Thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng,

Thơ Đường là thời kỳ đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả có ba nhà thơ lớn nổi bật là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.

Tới thời Minh – Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc diễn nghĩa (La Quán Trung), Thủy hử (Thi Nại Am), Tây du ký (Ngô Thừa Ân), Nho lâm ngoại sử (Ngô Kính Tử), Hồng lâu mộng (Tào Tuyết Cần),... Trong đó, Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.

Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.

Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại Sử ký, chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.

Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp.

Tới thời Minh và Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ của Trung Quốc.

Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông.

Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc 1, đã có cả khái niệm số âm, số dương.

Thời Nam – Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.

Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kỳ chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can Chi. Thế kỷ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt Trời. Thế kỷ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.

Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn châu Âu thế kỷ XIII.

Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời nhà Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latin và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt, châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc.

Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỷ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.

Hội họa Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thủy mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội họa từ đời Hán đến đời Tùy.

Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.

Công trình nổi tiếng thế giới như: Vạn Lý Trường Thành (dài 6700 km), Thành Trường An, Cố cung, Tử cấm thành ở Bắc Kinh.

Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những nhà tư tưởng đưa ra những lý thuyết để tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề của cuộc sống (Bách gia tranh minh).

Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia: -Âm dương, bát quái, ngũ hành, là những thuyết mà người Trung Quốc đã nêu ra từ thời cổ đại để giải thích thế giới. Họ cho rằng trong vũ trụ luôn tồn tại hai loại khí không nhìn thấy được xâm nhập vào trong mọi vật là âm và dương (lưỡng nghi).

-Bát quái là 8 yếu tố tạo thành thế giới: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.

-Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Đó là 5 nguyên tố tạo thành vạn vật. Các vật khác nhau là do sự pha trộn, tỉ lệ khác nhau do tạo hoá sinh ra. Sau này, những người theo thuyết Âm dương gia đã kết hợp thuyết Âm dương với Ngũ hành rồi vận dụng nó để giả thích các biến động của lịch sử xã hội.

Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người.

Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh "bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật", Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.

Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, "Đạo" là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Quy luật biến hoá tự thân của mỗi sự vật ông gọi là "Đức". Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau.

Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại "đạo trời", từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời.

Phái Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử làm "Thái thượng lão quân". Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh.

Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương "pháp trị", coi nhẹ "lễ trị". Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thủy Hoàng.

Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất 3 điều:

Pháp: đó là phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi người, không phân biệt đó là quý tộc hay dân đen.

Thế: Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia sẻ cho kẻ khác.

Thuật: đó là thuật dùng người. Thuật có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành, không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên. Thưởng phạt thì chủ trương "ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quý tộc hay dân đen", trọng thưởng, trọng phạt.

Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỷ V TCN đến giữa thế kỷ IV TCN). Hạt nhân quan điểm của Mặc gia là nhân và nghĩa. Mặc Tử còn là người chủ trương " thủ thực hư danh" (lấy thực đặt tên). Quan điểm của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể.

Các tầng lớp khác nhau trong xã hội vào những thời kỳ khác nhau theo những xu hướng phục trang khác nhau, màu vàng thường được dành riêng cho hoàng đế. Lịch sử phục trang Trung Quốc trải hàng trăm năm với những cải cách đa dạng và đầy màu sắc nhất. Trong triều đại nhà Thanh, triều đại huy hoàng cuối cùng của Trung Quốc, đã xảy ra những thay đổi về trang phục đột ngột và ấn tượng, quần áo của thời đại trước nhà Thanh được gọi là Hán phục hoặc trang phục Trung Hoa truyền thống nhà Hán. Nhiều biểu tượng như phượng hoàng được sử dụng cho mục đích trang trí cũng như kinh tế.

Sự đa dạng áp đảo khổng lồ của ẩm thực Trung Quốc chủ yếu đến từ việc các hoàng đế triều đại tổ chức những bữa tiệc với 100 món mỗi bữa ăn.[3] Vô số các nhân viên nhà bếp hoàng gia và phi tần cùng tham gia vào quá trình chuẩn bị thức ăn. Theo thời gian, nhiều món ăn trở thành một phần văn hóa hàng ngày của người dân. Một số các nhà hàng cao cấp nhất có những công thức nấu ăn gần với thời kỳ triều đại các vua chúa gồm nhà hàng Phòng Sơn ở Công viên Bắc Hải tại Bắc Kinh và Oriole Pavilion[3]. Có thể cho rằng, tất cả các chi nhánh Hồng Kông dù theo phong cách ẩm thực hoặc thậm chí là phong cách Mỹ thì theo một cách nào đó vẫn có nguồn gốc từ văn hóa các triều đại Trung Hoa.